Làn sóng điện thay thế thanh gươm, cây bút là phương tiện đi vào trái tim và khối óc mọi người. Mỗi chúng ta hãy là một chiến sĩ thông tin…Lời ngỏ cùng bạn đọc: Đại họa mất nước do Tập đoàn Việt gian Cộng sản (VGCS) bán nước đang đến rất gần! Đây là cuộc chiến khó khăn hơn bất kỳ cuộc chiến dành độc lập nào trong lịch sử vì VGCS là một thế lực cực kỳ hiểm độc, chúng núp dưới danh nghĩa đồng bào, thậm chí là người thân của chúng ta nên đòi hỏi chúng ta phải hết sức tỉnh táo trước cạm bẫy do chúng giăng ra. Trong nước, để làm sập bẫy người yêu nước, chúng nhào nặn ra bọn dân chủ "cuội", những tên đấu tranh cò mồi như: Cù huy Hà Vũ, Thích Quảng Độ, Nguyễn Thanh Giang, Nguyễn Đan Quế, Hà Sĩ Phu, Tô Hải, Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Văn Lý, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Tiến Trung, Hoàng Minh Chính ... Tiếp tay cho chúng ở Hải ngoại là bọn chó đẻ Việt Tân và đám tay sai nằm vùng như: Bùi Tín, Vũ Thư Hiên, Dương thu Hương, Dân làm báo, báo Đàn Chim Việt, báo Người Việt, đài BBC, đài VOA... Nên nhớ, chính lũ nằm vùng này còn nguy hiểm hơn cơ quan chuyên chính của VGCS rất nhiều vì chúng giả bộ đi với ta nhưng lại đưa ta vào mê lộ do VGCS giăng ra.  
Chúng ta, những người con dân Việt yêu nước, còn có ý thức trách nhiệm với quốc gia - dân tộc, còn vì tương lai bản thân và con cháu mình hãy thức tỉnh lương tri khi thời cơ tới cùng đứng lên đập tan ngụy quyền VGCS, xây dựng lại một VN thật sự độc lập-tự do-hạnh phúc.
Qua trang web này, những bài viết rất có giá trị đã được chọn lọc nhằm giúp Quý bạn đọc hiểu rõ hiện tình đất nước, những tội ác ghê tởm của việt gian HCM và Ngụy quyền VGCS đối với dân tộc VN để mà qua đó chuẩn bị cho mình những kinh nghiệm đấu tranh hiệu quả nhất trước khi dấn thân vì đại nghĩa. Cùng chung tay góp sức, mong hãy phổ biến trang web này đến với tất cả mọi người (Download Blog tại đây...)

Trung Tướng Ngô Quang Trưởng



Trung Tướng Ngô Quang Trưởng



Hải Vân... tro rắc bốn trời,
Hạt tro nào... lạc vào nơi cổ thành?

~~~~~~~~~~

Nguyễn Tường Thiết - Saturday, April 30, 2011

(Tặng Nhung, “đứa con đầu lòng” của nhà văn Thạch Lam)


Tôi gặp anh tất cả bốn lần. Bốn lần đó trải dài hơn ba thập niên. Không nhiều. Đã thế dường như trong cả bốn lần đó ngoài cái gật đầu chào chúng tôi không hề trao đổi với nhau lấy một tiếng. Anh vốn ít lời. Còn tôi thì e dè. Tôi vốn có tính rất ngại bắt chuyện với một người nổi tiếng, đặc biệt nếu người ấy lại là người có quyền thế. Trong thâm tâm tôi biết nếu tôi mở chuyện thì anh cũng sẽ vui vẻ bắt chuyện ngay. Đằng sau gương mặt lầm lì ít nói ấy anh là người rất bình dị. Nhưng lần nào cũng thế sau cái gật đầu chào, tôi không bao giờ cất tiếng. Để đến bây giờ ngồi trước bàn máy vi tính một buổi sáng mùa thu miền Tây Bắc nước Mỹ, tôi viết đôi dòng về anh mà lòng không khỏi gợn chút nuối tiếc: bài viết của tôi vì thế sẽ không ghi lại một mẩu đối thoại nào, dù ngắn, để làm kỷ niệm giữa anh và tôi. Mà nào giữa chúng tôi đâu có phải người xa lạ gì cho cam? Anh là nguời rất thân cận trong đại gia đình Nguyễn Tường chúng tôi, là chồng của người em họ tôi, trưởng nữ của nhà văn Thạch Lam.

Tôi nhớ lại hình ảnh anh trong bốn lần gặp ấy. Bốn lần thì có đến ba anh hiện lên trước ly rượu. Đó cũng là hình ảnh cha tôi thường thoáng hiện mỗi lần tôi nhớ về ông. Trước ly rượu anh trầm ngâm yên lặng. Cha tôi cũng thế. Và bao giờ cũng vậy mỗi lần nghĩ về anh lòng tôi không khỏi có ngầm một sự hãnh diện thầm kín rằng dòng họ tôi có được một người rể như anh nổi tiếng là người thanh liêm. Cách đây sáu năm khi tái bản cuốn truyện của cha tôi, cuốn Giòng Sông Thanh Thủy, tôi đã viết lời đề tặng anh trên trang đầu cuốn sách những lời thật lòng: “Tặng anh Ngô Quang Trưởng, với cả tấm lòng quí mến và ngưỡng mộ”.



Di ảnh Cố TrungTướng Ngô Quang Trưởng

Cơ duyên nào mà một vị tướng lừng danh của quân lực miền Nam Việt Nam lại kết duyên với cô con gái lớn của nhà văn tài hoa nhất Tự Lực Văn Đoàn? Tôi không biết nhiều để trả lời thật đúng cho câu hỏi này. Người có thẩm quyền trả lời là bà Trưởng. Mang dòng máu của nhà văn Thạch Lam tôi nghĩ Nhung nếu muốn viết cũng sẽ dễ thôi. Tôi cũng không có ý định viết hồi ký về anh vì thật tình tôi không biết nhiều. Chỉ xin ghi lại đây đôi chút kỷ niệm với anh trong dăm lần gặp gỡ hiếm hoi.

Trước khi gặp anh lần đầu tiên vào năm 1962 tôi đã nghe lan truyền câu chuyện về một mối tình tay ba của hai sĩ quan trẻ thuộc hai binh chủng khác nhau của QLVNCH, một không quân và một nhẩy dù, với cô con gái lớn của một nhà văn nổi tiếng. Hai quân nhân cùng yêu một cô gái. Đó là chuyện thường tình trong cuộc chiến. Điểm đặc biệt họ lại là đôi bạn rất thân nhau. Trước cái chết có thể đến bất cứ khi nào, họ giao ước với nhau trong tình bạn là nếu người nào nằm xuống trước thì người kia nguyện sẽ suốt đời chăm lo cho cô gái kia. Người phi công sau đó tử nạn máy bay và định mệnh đã đẩy cô em họ tôi gắn liền cuộc đời với anh Trưởng. Sau này nhiều lần gặp Nhung tôi toan hỏi Nhung về câu chuyện tình này có đúng sự thực hay không, nhưng tôi lại thôi không hỏi. Với tôi đó là một huyền thoại đẹp, hãy cứ để nguyên vẹn như thế trong trí tưởng tượng của tôi.

Năm 1962 tôi ở Sài Gòn và dậy học tại trường trung học Minh Tân ở Biên Hòa. Một bữa anh Triệu tôi, hiệu trưởng trường Minh Tân, chở tôi từ Biên Hòa về Sài Gòn trên chiếc xe lambretta của anh. Đến Thủ Đức anh tôi đề nghị ghé thăm Nhung lúc này đang ở đó. Trong lúc nói chuyện với Nhung thì có tiếng xe đỗ ở ngoài cửa. Tôi nhìn ra. Từ trên xe jeep một sĩ quan bận đồ dù nhẩy xuống. Hai bông mai trên ve áo trận. Anh Trưởng lúc ấy cấp bậc Trung úy giữ chức vụ Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 5 Nhẩy Dù. Anh người tầm thước, nước da ngâm đen, khuôn mặt sần sùi khắc khổ. Cảm tưởng đầu tiên của tôi là anh không những không đẹp trai, lại không có cái “tướng” hùng của một quân nhân. Trí tôi lúc ấy thoáng hiện câu chuyện tình tay ba và tôi hình dung khuôn mặt anh chàng phi công tử trận chắc là phải hào hoa và đẹp trai hơn anh Trưởng.

Năm 1967 tôi gặp anh Trưởng lần thứ nhì ở Huế thì trên ve áo trận của anh hai bông mai đã thay thế bằng một ngôi sao. Anh đã lên tướng! Người sĩ quan tôi trông không có “tướng” ấy, năm năm sau đã được thăng tướng trong một thời gian ngắn kỷ lục. Trong họ tôi bắt đầu có lời đồn đãi là từ khi anh Trưởng lấy Nhung thì như diều gặp gió đường binh nghiệp của anh lên vùn vụt. Từ một Trung úy Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 5 Nhẩy Dù anh bây giờ là Chuẩn tướng Sư đoàn trưởng Sư đoàn 1 Bộ Binh. Năm ấy từ Sài Gòn tôi bay ra Huế hai tuần lễ và tá túc tại đại học xá Nam Giao, nơi mà hai năm trước tôi đã từng là sinh viên nội trú để theo học ở Đại Học Khoa Học Huế. Từ Nam Giao tôi đi bộ đến thăm cô em họ, lúc này đã khó gặp vì ở một nơi rất “kín cổng cao tường”. Tư dinh của tướng Trưởng là một biệt thự trên đường Lê Thánh Tôn gần nhà bưu điện Huế. Chung quanh tòa nhà giây thép gai giăng đầy, ở bốn góc là bốn lô cốt thiết lập bằng những bao cát với những họng súng chĩa ra từ lỗ châu mai. Người lính gác cổng vào trong nhà báo và Nhung đã ra tận cổng để tiếp tôi. Chúng tôi đang nói chuyện ở sa lông thì anh Trưởng về. Trông anh mệt nhọc nhưng oai phong hơn hẳn lần tôi gặp anh 5 năm trước. Thuở ấy tôi chưa nhập ngũ, vẫn còn là sinh viên, dù vậy trông anh tôi cũng có cảm giác hơi khớp. Không biết có phải vì ngôi sao trên ve áo anh khiến tôi thấy anh oai vệ hơn không. Tôi đứng dậy chào anh trong lúc Nhung nói với anh Trưởng: “Anh Thiết, con bác Tam đấy!”. Anh không nói gì, chỉ khẽ gật đầu, rồi lẳng lặng ra chỗ quầy rượu nơi có đặt mấy chai Martell có ngâm những củ sâm bên trong, anh rót rượu vào ly rồi cầm ly rượu trên tay không uống, anh chậm rãi bước tới bước lui trong phòng khách, đầu cúi nhìn sàn nhà vẻ mặt đăm chiêu suy nghĩ.


Đèo Hải Vân

Năm 1970 khi tôi gặp lại anh lần thứ ba thì tôi đã là một quân nhân. Sau biến cố Tết Mậu Thân tôi nhập ngũ khóa 2/68 Thủ Đức. Ra trường tôi phục vụ ngành Chiến Tranh Chính Trị tại Tổng Cục CTCT ở Sài Gòn. Năm ấy khoảng gần tết thím Sáu tôi tức là bà Thạch Lam mất, tôi đi viếng thím trong bộ quân phục. Quan tài thím đặt tại tư dinh tướng Trưởng trong cư xá sĩ quan Chí Hòa. Họ hàng chúng tôi đứng chật hai bên quan tài đặt chính giữa phòng khách. Xe jeep đậu trước cửa. Anh Trưởng bước vào. Bỏ chiếc mũ lưỡi trai cặp tay – chiếc mũ gắn hai ngôi sao đen – anh đứng yên lặng trước quan tài mẹ vợ cúi đầu. Đứng ở bên này quan tài, đối mặt anh lần đầu trong tư thế một quân nhân, một Thiếu úy trước một Thiếu tướng, tôi cảm nhận tất cả cái trọng trách lớn lao của vị tướng Tư Lệnh Quân Đoàn IV, quân khu IV, hằn trên gương mặt khắc khổ của anh. Hai phút sau anh đội mũ lên đầu rồi vội vã bước ra xe đi mất.

Năm 1972 sau “mùa hè đỏ lửa” tôi là một trong ba sĩ quan của Khối Kế Hoạch/ Tổng Cục CTCT đi thanh tra vùng giới tuyến. Ba người ấy là Trung tá Vĩnh Huyền, Thiếu tá Nguyễn Công Luận và tôi với cập bậc Trung úy. Phái đoàn bay ra Huế trú đóng hai tuần lễ ở Mang Cá trong cổ thành Đại Nội. Không khí nơi đây đượm mùi chiến tranh. Lần đầu tiên kể từ ngày ra trường tôi trực diện với cuộc chiến. Cộng quân lúc này thỉnh thoảng vẫn tiếp tục nã pháo vào cổ thành Huế. Mỗi lần nghe tiếng đạn rít trên không trung tôi quơ nón sắt chụp lên đầu nhào xuống giao thông hào nơi hàng trăm binh sĩ thuộc đủ loại binh chủng và cấp bực cùng nhào xuống trú pháo. Theo bản năng tự nhiên mỗi lần nghe tiếng đạn pháo rít trên cao là tôi lại chúi đầu xuống đất mặc dù tôi biết rằng nghe được tiếng đạn rít tức là mình đã thoát chết vì đạn đã bay qua khỏi đầu. Chính trong lúc trú pháo này mà tôi hiểu được nỗi kinh hoàng mà anh vợ tôi Trung úy Nguyễn Thái Hòa và những chiến sĩ sư đoàn 5 Bộ Binh tử thủ An Lộc đã phải hứng chịu trước những trận mưa pháo dữ dội hơn gấp cả ngàn lần. Trước khi ra Huế lần này tôi đã đi chôn anh Hòa tại nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa. Anh tử trận ngày 7-7-1972 đúng ngày Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bay xuống An Lộc gắn lon Đại úy cho anh và ngay đêm đó anh bị pháo chết. Nội trong 24 tiếng đồng hồ ông anh vợ tôi đã lên chức hai lần, từ Trung úy lên cố Thiếu tá. Và cũng chính trong lần ra Huế này mà tôi được nghe được rất nhiều giai thoại về anh Trưởng, “người hùng tái chiếm Quảng Trị” lúc này đã được vinh thăng Trung tướng với ba sao trên ve áo và giữ chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn I, Quân khu I. Tất cả những giai thoại đó nếu được ghi lại đầy đủ tôi nghĩ có thể viết thành một quyển sách. Giai thoại về sự thanh liêm trong sạch của anh cũng có. Giai thoại về tác phong chỉ huy của anh cũng có. Giai thoại về lòng thương lính dưới quyền của anh cũng có.

Tôi nhớ là trong giao thông hào giữa hai đợt pháo kích một vị sĩ quan cạnh tôi sau khi biết sự liên hệ rất gần giữa tôi với anh Trưởng hỏi tôi có đi thăm tướng Trưởng trong lần ra Huế này không. Tôi trả lời không. Rồi tôi nói thêm: “Mình chả dại. Đang ngon lành trong ngành CTCT lại ở hậu cứ, gặp ổng nhỡ ổng lại ký giấy tống mình ra tiền tuyến thì mệt lắm. Mà không phải tôi nói giỡn đâu. Một người anh họ tôi cùng khoá với tôi 2/68 đã bị lãnh búa rồi. Ông tướng hãnh diện đi khoe với cố vấn Mỹ là có người anh họ đang chiến đấu ở ngay tuyến đầu!”

Lần thứ tư tôi gặp anh Trưởng là vào tháng 7 năm 1993 tại Virginia, tiểu bang êm đềm của nước Mỹ. Như một khúc phim được quay nhanh, hai mươi ba năm sau ngày tôi gặp anh lần chót ở Việt Nam tôi lại thăm anh Trưởng tại tư gia, một căn nhà khiêm nhường tại vùng thủ đô Hoa Kỳ. Cuộc chiến Việt Nam như một giấc mơ hãi hùng nhưng không thực lúc này đã trở thành dĩ vãng. Năm đó vào tháng 7 chúng tôi bay qua miền Đông nhân ngày giỗ thứ 30 của cha tôi được tổ chức tại nhà anh cả tôi, anh Việt, ở Virginia. Lần đầu tiên gặp anh Trưởng trong bộ thường phục, trông anh là lạ. Anh bận chiếc áo mông-ta-gu màu đỏ trông anh mập ra, trẻ trung và khỏe mạnh. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy ở anh vẻ an bình hiện trên gương mặt. Nhưng đó chắc chỉ là bề ngoài. Bên trong chắc hẳn anh mang nặng nỗi đau và niềm cay đắng của một vị tướng bại trận sẽ mang theo anh cho đến tận cuối đời. Anh đích thân rót rượu và ân cần mời tất cả mọi người. Tôi toan tiến lại gần anh, nói với anh vài lời, đặc biệt là bầy tỏ tấm lòng của tôi đối với anh, nhưng tôi lại thôi. Tôi nghĩ trong bụng anh có thể đã nghe những lời bầy tỏ tương tự như thế rất nhiều lần rồi, nói ra lại thành khách sáo, vả lại chúng tôi là người nhà, còn thiếu gì những dịp khác để gặp anh tâm tình. Nhưng tôi đã lầm. Dịp khác để gặp anh đã không bao giờ đến, cho đến khi anh ra đi vĩnh viễn vào ngày 22 tháng 1 năm 2007. Tôi không thể ngờ lần thứ tư tôi gặp anh ở Virginia đó cũng là lần chót. Và chúng tôi vẫn chưa bao giờ trao đổi với nhau được lấy một lời. Tôi chỉ còn cách tự an ủi là ba năm trước khi anh mất anh đã đọc những lời chân tình của tôi viết về anh trên trang đầu cuốn sách Giòng Sông Thanh Thủy tôi gửi tặng.
*

* *

Trưa hôm nay tôi lái xe đến thăm anh Phạm Hậu. Nhà anh Hậu ở Bothell, cách Shoreline chỗ chúng tôi ở khoảng 20 phút lái xe. Từ mấy năm nay chúng tôi có một giao ước. Cứ cách khoảng hai tháng là hai đứa phải ới cho nhau một tiếng, hẹn nhau tại một quán ăn, ăn trưa rồi ngồi hàn huyên. Luân phiên chúng tôi trả tiền. Nhưng dạo này anh hơi lẫn, ngại lái xe, nên tôi thường đến nhà anh chở anh đi.

Từ trong nhà bước ra anh nói ngay:
– Tôi quên mất rồi. Không biết lần này ai trả tiền, ông hay tôi?
– Tôi cũng không nhớ. Nhưng nhầm nhò gì. Để tôi trả cho. Anh cứ “vô tư” đi cho tôi nhờ!
– Này này! Ông đừng có lợi dụng cái bệnh Alzheimer của tôi nhé! Cái gì cũng phải cho nó sòng phẳng...
Trong lúc lái xe tôi nghĩ đến sự tình cờ hi hữu đã khiến chúng tôi gặp lại nhau và ở gần nhau trên nước Mỹ. Bốn mươi năm trước chúng tôi có một thời gian cùng phục vụ tại Khối Kế Hoạch/Tổng Cục CTCT. Anh Hậu lúc ấy là Thiếu tá nhưng anh chỉ tạm trú ở Tổng Cục vài tháng trước khi chờ biệt phái sang Phủ Tổng Thống. Hồi đó tôi nghe đồn anh có “gốc” lớn lắm. Sau này kể anh chuyện ấy anh cười nói: “Gốc mẹ gì! Toàn là đồn nhảm không à!”. Tôi cũng nhớ là sau khi biết tôi là con của ông cụ, anh Hậu, tác giả tập thơ Chuyện Chúng Mình, có đọc cho tôi ngay câu thơ mà anh đã làm trước đó mười năm: “Yêu Nhất Linh tôi chọn tên Nhất Tuấn”. Cùng sang Mỹ năm 1975 và cùng chọn tiểu bang miền Tây Bắc nước Mỹ để định cư, chúng tôi đã có dịp gặp nhau thường xuyên từ hơn ba mươi năm nay.

Ăn trưa xong, bên tách trà nóng, chúng tôi ngồi ôn chuyện cũ. Lẫn trong câu chuyện hình ảnh của những người mà chúng tôi đã từng quen biết năm xưa, người mất kẻ còn, lần lượt hiện ra. Tội nghiệp Trung tá Ngô Văn Hùng, Trưởng khối Kế Hoạch/Tổng Cục CTCT, xếp của chúng tôi, đã chết vì ngộp thở trên chuyến tàu hỏa chở những tù nhân cải tạo ra Bắc. Trung tá Nguyễn Đình Bảo, Trưởng phòng Nghiên Cứu Kế Hoạch, xếp trực tiếp của tôi, cũng đã ra đi tại tiểu bang New Jersey miền Đông nước Mỹ. Trung tá Vĩnh Huyền, Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 50 CTCT, người mà anh Hậu vẫn khen là có gương mặt và tác phong rất bảnh, đã từ lâu tôi mất liên lạc, không biết còn ở Calgary bên Canada hay không. Và Thiếu tá Nguyễn Công Luận nữa, không biết anh còn ở San José hay không, sức khoẻ anh hiện ra sao...

Bên ngoài lướt qua khung kính của nhà hàng mưa nhẹ bay bay. Bãi đậu xe lá vàng phủ ướt nhẹp. Bây giờ là cuối thu, những chiếc lá của hàng cây phong trồng trên bãi đậu xe đã bắt đầu chuyển từ màu vàng óng sang màu đỏ tía. Mỗi lần cơn gió mạnh thổi lá rụng lả tả bay đậu trên mui trên kính những chiếc xe hơi nằm trên bãi.

Tôi nhìn anh Phạm Hậu ngắm hàng râu mép của anh và bỗng thấy anh cũng bảnh y như Trung tá Vĩnh Huyền trong hình ảnh ký ức tôi năm xưa. Chỉ khác là bây giờ râu tóc của nhà thơ này đã chuyển sang màu muối tiêu. Nhớ đến Trung tá Vĩnh Huyền tôi lại liên tưởng đến lần chúng tôi ra Huế năm 1972 và tôi nói với anh Hậu:
– Tôi đang viết giở một bài về tướng Ngô Quang Trưởng, nghe nói anh có làm bài thơ về ông Trưởng hay lắm, anh có thể đọc cho tôi được không?

Năm ngoái cũng trong một lần đi ăn trưa như hôm nay tôi đã kể cho anh Hậu nghe về ước muốn sau cùng của anh Trưởng là sau khi anh chết tro của anh được thả trên đèo Hải Vân. Vào mùa hạ năm 2008, một năm sau khi anh chết, ý nguyện đó đã được gia đình thực hiện. Theo lời Nhung kể cho tôi trong một lần điện đàm thì anh Trưởng có một người tài xế sống ở Việt Nam mà Nhung vẫn thường xuyên liên lạc và giúp đỡ từ nhiều năm nay. Chính chú tài xế ấy đã đón Nhung và các con Nhung tại phi trường Tân Sơn Nhất khi Nhung mang bình tro anh Trưởng về Việt Nam. Từ phi trường chú tài xế chở mọi người về nhà chú tại ngoại ô thành phố Sài Gòn. Thật là một điều lạ lùng là nhà chú tài xế đó lại ở trên đường Thạch Lam, một con đường mới mở sau này khá lớn và dài ở sâu trong Chợ Lớn. Tôi có hỏi Nhung là chú ấy có biết Nhung là con của Thạch Lam hay không Nhung trả lời là chú ấy không biết và Nhung cũng không nói. Rồi sau đó tất cả bay ra Huế thuê xe lên đèo Hải Vân.


Đã hơn 10 năm qua, trời nắng cũng như mưa, người Bừa vẫn lặng lẽ túc trực,
quét dọn, hương khói ở cái miếu thờ những người không may tử nạn nằm cô quạnh trên đỉnh đèo Hải Vân (ranh giới giữa Đà Nẵng và tỉnh TT-Huế)...

Đến gần đỉnh đèo nơi một khúc ngoặt nguy hiểm có một cái miếu nhỏ thờ những người bị tai nạn chết ở đó Nhung quyết định chọn chỗ này để rải tro. Suốt ngày hôm đó trời âm u giông gió. Mấy mẹ con và chú tài xế khấn nguyện trước miếu. Một lát lâu sau khấn xong ngửng lên thì trời đất bỗng dưng quang đãng hẳn lên mây tan và trời trong xanh. Vợ con anh Trưởng từng người một kể cả người tài xế trung thành lần lượt rải tro theo gió, tro của vị tướng lừng danh của quân sử VNCH bay trên ngọn đèo hùng vĩ Hải Vân nơi mà chú tài xế kia đã nhiều lần chở vị tướng ba sao qua lại trên trục lộ Huế-Đà Nẵng, ngọn đèo đã đưa vị tướng chấn lĩnh vùng địa đầu lên đỉnh vinh quang và cũng là ngọn đèo đã kéo vị tướng ấy xuống chốn cùng thảm bại.

Rải tro theo gió... trên đỉnh đèo Hải Vân... ý nguyện của người đã khuất gợi lên trong tôi hình ảnh vừa bi hùng lại vừa lãng mạn, như là sự kết hợp tuyệt vời giữa mối tình của viên dũng tướng với cô con gái đầu lòng của nhà văn Tự Lực Văn Đoàn.

Ngậm ngùi tôi lắng nghe anh Phạm Hậu đọc bốn câu thơ sau đây của anh:

"...Lệnh sáng giữ, lệnh chiều bỏ Huế!
Bao chiến công... cũng thế mà thôi.
Hải Vân... tro rắc bốn trời,
Hạt tro nào... lạc vào nơi cổ thành?..."
Nhất Tuấn
Tiểu đoàn 5 Nhẩy Dù VN (3/1954-9/1954).

Nguyễn Tường Thiết


Gia đình Tướng Ngô Quang Trưởng đưa ông về với quê hương
Với biết bao đồng hương và cựu chiến sĩ cùng đồng đội đã đến dự tang lễ của cố Trung Tướng VNCH Ngô Quang Trưởng, được long trọng cử hành vào ngày 25 Tháng Giêng, năm 2007, tại Falls Church Virginia, miền Ðông Hoa Kỳ, sự tiển đưa vị tướng nổi danh là “tài và thanh bạch” đã hoàn tất sau lễ di quan cùng ngày.
Thân quyến của Tướng Ngô Quang Trưởng khấn vái trên ngọn đèo Hải Vân trước khi rải tro của ông. (Hình: Người Việt, từ video do bà quả phụ Ngô Quang Trưởng cung cấp)
Nhưng, nhân một chuyến viếng thăm tòa soạn, bà quả phụ Ngô Quang Trưởng tâm sự với phóng viên Người Việt rằng, việc tiễn đưa chồng và cha về nơi yên nghỉ cuối cùng, chỉ được bà và 4 người con thực hiện một năm sau đó, khi tro cốt của ông được đưa về rải trên ngọn đèo Hải Vân ở Việt Nam, theo ước nguyện cuối cùng của ông.
Bà Trưởng tâm sự rằng thuở ông còn sinh thời, hai người đã “mua sẵn hai lô đất cạnh nhau,” nhưng một hôm Tướng Trưởng lại nói với bà rằng có lẽ sau khi qua đời, ông muốn “được thiêu và mang về Việt Nam.”
“Về Việt Nam? Thế anh không muốn ở cạnh bên em sao?” Bà Trưởng kể đã hỏi chồng như thế.
Tướng Trưởng lúc đó đã trầm ngâm không nói, rồi thấy vợ buồn buồn, ông an ủi, “Thôi thế anh sẽ ở lại đây cạnh em.”
Ðã yên trí như thế, nhưng sau khi ông nằm xuống, bà Trưởng vẫn không ngạc nhiên, khi Mai Trinh, cô con gái đầu lòng bảo rằng “bố dặn kỹ là mang tro cốt bố về rải trên đèo Hải Vân.”
Thì ra, sợ vợ buồn, Tướng Trưởng đã không tâm sự với bà mà chia sẻ tâm tư với cô con gái lớn.
Không chỉ tâm sự, ông còn tả tỉ mỉ về ngọn đèo ấy, tả rõ, sống động và đầy ấn tượng đến nỗi, theo lời bà Trưởng, một người bạn thân của Mai Trinh đã nhờ lời tả của ông mà vẽ lên bức tường đằng sau bàn thờ và hài cốt của ông, một bức tranh về cảnh đèo ngoạn mục này.
“Lạ lắm,” người họa sĩ “nghiệp dư” này chưa bao giờ đặt chân đến đèo Hải Vân, mà không hiểu làm sao lại vẽ ra cảnh đèo “hình dáng rất giống chỗ rải tro sau này.” Bà Trưởng kể.
Khi xe đi đến Huế thì trời mưa tầm tã, bà Trưởng đã lo là “thế này thì làm sao mà rải tro được” rồi lâm râm cầu nguyện.
Bỗng dưng trời tạnh mây quang.
Thoạt tiên bà Trưởng chỉ cho rằng lý do Tướng Trưởng muốn được nằm rải rác trên ngọn Hải Vân là vì ông gắn bó với dân chúng ở miền Trung, nhưng khi xe leo lên đến đỉnh đèo, bà mới thấy là cảnh ở đây hùng vĩ quá, ngoạn mục quá, không hổ danh là nơi đã được vua Lê Thánh Tông đặt cho tên “Ðệ Nhất Hùng Quan,” và nếu muốn ở tại quê hương thì có lẽ khó chọn nơi nào lý tưởng hơn.
Nằm cheo leo trên dẫy Trường Sơn, bên là núi, bên là biển, gió mạnh và mây lúc nào cũng bay là đà, đèo Hải Vân dài 21 kilô mét, là ranh giới giữa tỉnh Thừa Thiên, Huế ở phía Bắc, và thành phố Ðà Nẵng phía Nam. Với đỉnh cao nhất là 496 mét so với mực nước biển.
Ði qua một vùng biển với những chiếc tầu nhỏ nằm yên trên ven bờ, qua một rừng thông cao che khuất những rặng núi xa mời, ông Tín, người tài xế rất thân quen với Tướng Trưởng ngày xưa, cho biết bắt đầu ra cửa biển Ðà Nẵng.
Chiếc xe tiếp tục chạy ngoằn ngoèo trên ngọn đèo vừa đẹp vừa nguy hiểm. Biển không xanh lơ mà là màu xanh lá non của những ngày không có nắng, trên bầu trời, xen lẫn tầng mây trong xanh lẫn những làn mây xám, một bên đường vài cây lau đùa trong gió vật vờ, sóng biển vỗ vào bờ ném lên những làn sóng trắng.
“Ðúng chỗ này rồi anh!” Một người con gái của bà kêu lên.
“Có con sông nữa nè.” Người con khác nói.
Sao giống chỗ vẽ trong bức tranh quá, bà Trưởng nghĩ thầm, có cảm tưởng ông đang ở quanh đây, rất gần.
Xe dừng bên một cái miếu bên đường.
Trời lạnh, và gió phần phật. Bà Trưởng tay cầm bó hoa huệ, tay cầm bó nhang, đứng co ro trước ngôi miếu. Bốn người con, và cả ông tài xế chia nhau hoa, nhang rồi lâm râm khấn vái.
Một người con trai tay run run mở bọc tro, bà và những người con mỗi người một nắm tro, đứng tựa vào thành sắt trên đường đèo, rồi thay phiên nhau mở rộng tay ra.
Nhưng kìa, sao gió mạnh thế mà tro vẫn vón lại thành một khối vấn vương rồi mới tan ra, tung bay theo gió.
Trên đèo Hải Vân, gió mạnh thế mà từ tay bà Trưởng, tro vẫn vón lại thành một khối vấn vương rồi mới tan ra, tung bay theo gió. (Hình: Người Việt, từ video do bà quả phụ Ngô Quang Trưởng cung cấp)
“OK, con đưa ba về.” Một người con gái nói trong tiếng thở dài.
“Ba happy rồi đó, thôi goodbye nhe ba, lâu lâu ba về thăm gia đình.” Người con khác dặn dò.
Rải tro xong, bà Trưởng tần ngần nhìn cảnh đèo. Những hạt tro như còn vướng vất trên tóc trên áo bà. Gió thổi vi vu, những gì còn lại của thể phách của cố Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đã được bay vào thinh không, rơi xuống từng ngọn đồi, bám vào từng lá cây, hòa tan trong lòng biển Thái Bình Dương, mãi mãi quấn quýt với đất nước Việt Nam, bên cạnh những người dân miền Trung nghèo nàn, và mảnh đất mà ông và bao chiến sĩ đã xả thân bảo vệ.
Bà hơi buồn nhưng nhẹ nhàng, như đã làm xong được một việc canh cánh bên lòng.
“Tôi thấy anh đã quyết định đúng, và thấy thanh thản cho anh ấy!” bà chia sẻ.
Rồi bà mơ màng như nói cho một mình nghe:
“Chế độ nào thì rồi cũng phải qua đi, nhưng đất nước muôn đời vẫn là đất nước mình. Cuối cùng anh đã về được với quê hương.”

Vinh Danh Quân lực Việt Nam Cộng Hòa






TỔ QUỐC - DANH DỰ - TRÁCH NHIỆM

Một chế độ nào cũng có những khuyết điểm, Việt Nam Cộng Hòa không là ngoại lệ, nhưng ở chế độ đó con người đúng nghĩa là con người, ở đó con người không phải con vật, con thú cho nhà cầm quyền muốn làm gì thì làm như chế độ tôi đang phải sống. Nói như vậy để chúng ta thấy rằng tôi không có ý ca ngợi VNCH một cách vô lý. Trong con mắt của tôi, đó là một chế độ đáng sống hơn vạn lần so với cộng sản ngày nay. Và nếu được cho lựa chọn thì tôi sẽ quay ngược thời gian về làm người lính VNCH – vì với tôi họ là “Anh Hùng”!
Gần 40 năm sau cuộc chiến mà ở đó những người anh hùng chiến sĩ VNCH đã gục xuống vì chính nghĩa. Họ đã gãy súng nhưng họ thực sự là anh hùng. Hãy bình tĩnh nhìn lại họ để xem những gì tôi gọi họ - những người lính VNCH là anh hùng có gì sai không?
Thứ nhất: VNCH không phải là “ngụy” và những người lính VNCH phải gục ngã vì họ bị ép phải thua và không còn khả năng để chiến đấu. Họ không thể dùng tay không đánh nhau với đoàn quân đông đảo có vũ khí, đạn dược áp đảo đang tiến theo thế cờ chính trị. Như vậy họ không phải là những người bại trận. Trên thực tế họ bị ép phải “thua”.
Thứ hai: Với khẩu hiệu “tổ quốc – danh dự - trách nhiệm” thì quân lực VNCH đã chiến đấu cho tự do miền nam hơn 20 năm trời. Họ không phải là những kẻ đi gây chiến, xâm lược nước khác, khủng bố như cộng sản. Vậy cớ sao họ vì an ninh, vì quốc gia mà chiến đấu không thể gọi họ là anh hùng?
Thứ ba: Nhìn lại cuộc chiến VNCH và VNDCCH thì ai cũng thấy gương của những vị tướng dám tuẫn tiết theo thành như trường hợp của tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trận Văn Hai, Phạm Văn phú, Lê Nguyên Vỹ,... Vậy ai còn có thể nói quân lực có những người anh hùng đó không anh hùng? Dám chết cho lý tưởng của mình, dám chết vì thấy rằng mình dù bị ép thua nhưng cũng có trách nhiệm trong nỗi đau đó có thể gọi là anh hùng không? Có! Rất xứng đáng gọi họ là những anh hùng.
Thứ tư: Khi so sánh với quân đội nhân dân VN hiện nay tôi càng thấy sự khác biệt của những người anh hùng và những kẻ “tự phong anh hùng”. Nếu quân lực VNCH có Ngụy Văn Thà và đồng đội sẵn sàng hi sinh vì biển đảo tổ quốc thì quân đội nhân dân cộng sản không dám “ho” một tiếng với Trung cộng bắn ngư dân và còn “tri ân” giặc như một đứa con nít đang xu nịnh đám giang hồ mất nết. Vậy ai là anh hùng các bạn cũng đã biết rồi chứ?
Thứ năm: Sau khi cuộc chiến kết thúc, hàng triệu người lính VNCH còn kẹt lại ở VN chịu thương tật, không ai giúp đỡ, không có lương hưu nhưng họ vẫn sống thẳng thắn và điềm đạm. Trong khi đó quân đội cộng sản tự cho mình là anh hùng thì lại vì cái sổ hưu mà đang cố bám lấy cái đảng khủng bố, độc tài và chịu làm thân nô lệ cho Tàu. Vậy ai là anh hùng? Xin giành sự suy ngẫm này cho chính các vị tướng già quân đội cộng sản Việt Nam.
Còn rất nhiều bằng chứng nhưng tôi xin chỉ nêu 5 điều chính cho thấy những người mà tôi gọi là anh hùng – những người lính VNCH là hoàn toàn có cơ sở. Cuộc chiến mà họ phải thua dù họ có chính nghĩa không có ý nghĩa. Điều ý nghĩa đọng lại cho mãi sau này đó là họ đã từng là những người anh hùng, họ xứng đáng được tôn vinh và quan trọng hơn họ đang thắng trong cuộc chiến trong lòng con dân Việt Nam!
Xin ngả mũ tri ân những người lính VNCH - Những người anh hùng - Những người đã đặt nền móng cho ý chí không chịu khuất phục cộng sản khát máu! Xem thêm... 
VINH DANH QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA: 
 ANH HÙNG TỬ - KHÍ HÙNG BẤT TỬ  




Người là ai? - Nhạc sĩ Hoàng Tường

Vinh Danh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa

  

Tổ Quốc Cờ Vàng

Tuổi trẻ VN Vinh danh Quân lực VNCH   

 Hùng Ca Việt Nam Cộng Hòa   


 Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa

 

 Hành Khúc Không Quân VNCH

 Liên Khúc Quân Hành VNCH   

Hành Khúc Hải Quân VNCH   

 Hành Khúc Lục Quân VNCH
 
Hành Khúc Sư Đoàn Dù

 Liên Khúc Quân Ca 


Quốc Hận 30-4: Ngũ hổ tướng quân VNCH tử tiết  
 Từ thời điểm năm 1945-1954, để ngăn chận hiểm họa Cộng Sản bành trướng trên thế giới, Mỹ đã cố vấn và viện trợ cho Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa, Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa được bổ sung, huấn luyện và kiện toàn trở thành Quân Lực hùng mạnh, tinh nhuệ, thiện chiến có hạng trên thế giới như một cường quốc quân sự. 
Chính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nầy đã được tôi luyện gian khổ từ trong những quân trường “luyện thép” có tầm vóc quốc tế, đã chứng tỏ khả năng thiện chiến kinh qua những chiến trường khắp bốn Vùng Chiến Thuật, đã đoạt những chiến thắng oanh liệt vang dội thế giới như: Tết Mậu Thân (1968), Khe Sanh (1969), Quảng Trị, An Lộc, Kontum (1972), …Và bi hùng lẫm liệt thay…có gì để so sánh hơn ở giai đoạn cuối mùa cuộc chiến, Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa bị “Đồng Minh” Mỹ cắt viện trợ, bỏ rơi, bán đứng, bàn giao miền Nam Việt Nam cho Bắc Việt và Trung Cộng như thân phận của con chốt thí trên bàn cờ Chính Trị, mỗi Chiến Sĩ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chỉ được trang bị cấp số 3 band (30 viên) đạn, mỗi khẩu trọng pháo chỉ được bắn 3 trái đạn mỗi ngày mà thôi…! Nhưng họ vẫn anh dũng chiến đấu với Bắc Quân trên khắp chiến trường khốc liệt cho đến viên đạn cuối cùng, rồi thu nhặt vũ khí trên xác chết của quân địch tiếp tục chiến đấu cho đến khi bị tràn ngập, thất thủ như đơn vị Lữ Đoàn 3 Nhẩy Dù tại mặt trận Khánh Dương ở cuối đường lui quân liên tỉnh lộ 7, Quân Đoàn 2...! Tỉnh Lộ 7 đường lui quân bi thãm…! Mỗi thước đường một thân xác quân dân ! Nhưng: Bắc quân phơi xác trên đường Nam tiến Khánh Dương là mồ Sinh Bắc Tử Nam…! Rực lửa chiều hôm khét áo Hoa Dù Mũ Đỏ phục hận cuồng phong vần vũ Mãnh Hổ chiến Lữ Đoàn 3 vùng vẫy Bắc quân trùng trùng khép chặt vòng vây… Quê Hương ơi lửa cháy đỏ từng làng Đâu đó vành khăn tang ai chít vội ! Vâng. Chính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã chiến đấu oai hùng, nhiệm mầu, linh thiêng dòng chiến sử tại mặt trận Xuân Lộc với Sư Đoàn 18 Bộ Binh, Nhất Kiếm Trấn Ải đã chận đứng lũ cường giặc tiến chiếm thành phố SàiGòn tháng 4-1975, tiếng bom đạn nổ xé rách màn đêm, rung rinh thành phố, khói lửa rực trời cuồn cuộn tầng mây: Vỡ tuyến Khánh Dương giặc tràn Xuân Lộc Chiến Đoàn 52 cản địch ở Dầu Dây Cuộc chiến Thư Hùng quyết liệt nơi đây Bom đạn xé gió rung rinh thành phố Tin chiến thắng của Sư Đoàn 18 Tử khí dậy trời u ám buổi hoàng hôn Bắc quân thiêu tan xác hai Sư Đoàn Đêm thấp thoáng chập chờn bóng ma ẩn hiện Vâng. Chính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã chiến đấu từ khởi đầu của cuộc chiến Quốc-Cộng để Bảo Quốc và An Dân trong suốt thời gian dài cho đến ngày 30-4-1975…! Nhưng cũng chính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nầy đã bị oan khiên với cái “Tội” và “Nghiệp” vì đã “ Bị, Được” chọn làm “Đồng Minh” với Mỹ. Các quốc gia Tây Phương và cả thế lực tôn giáo lớn bị mất quyền lợi thuộc địa…họ căm thù Mỹ nên đã thỏa hiệp, cộng tác, góp sức hậu thuẩn từ chính trị, ngoại giao, tình báo gián điệp, kinh tế, truyền thông, báo chí…hợp quần với các quốc gia trong khối Cộng Sản được lãnh đạo bởi Nga, Tầu quân viện cho Bắc Việt xua quân vào Nam quyết tiêu diệt Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, thực chất và mục đích quyết xẻ thịt thớt voi Mỹ để trả thù. Vì bị Tây Phương và khối Cộng Sản tấn công khắp mặt trận ngoại giao như là một “ Đế Quốc Xâm Lăng” …nước Mỹ phải cưu mang và viện trợ cho Lực Lượng Đồng Minh: Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan, Đại Hàn, Thái Lan, Phi Luật Tân. Những chi phí hao tốn vượt bực đã làm hao mòn, suy yếu, tổn hại sinh lực nước Mỹ, khiến giới lãnh đạo Mỹ buộc phải đi đến giải pháp “ Đi Đêm” đạt thỏa hiệp với Nga, Tầu để rút quân Mỹ an toàn thoát ra khỏi vũng lầy chiến tranh Việt Nam và Họ cắt hết tất cả quân viện, trói tay Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bàn giao cho Bắc Cộng. Họ trân tráo, giáo giở tuyên bố :” …trang sử Việt Nam đã được lật qua...” Như thế đó! Chính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã không chỉ chiến đấu với quân Bắc Cộng. Thực thể Họ đã chiến đấu với toàn thể các thế lực Tây Phương và đại khối Cộng Sản trên thế giới. Chính chúng ta phải khẳng định và điểm mặt thế giới và Tuyên Ngôn dõng dạc rằng:” Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Tinh Nhuệ, Thiện Chiến Có Khả Năng Bảo Vệ Hơn 85 Triệu Đồng Bào Việt Nam Và Trấn Giữ Vẹn Toàn Bờ Cõi, Biên Cương Đất Nước”. Nếu không bị “Đồng Minh” Mỹ phản bội! Thường thường sau những biến cố quan trọng, gần thì liên quan đến bản thân, xa thì liên quan đến cả vận mệnh quốc gia, dân tộc…mỗi người trong xã hội đều phải để tâm suy nghĩ, phân tích cố gắng tìm cho được phương pháp, đường lối, hướng đi để hành động cải thiện và hoàn chỉnh nếp sống…Tiền Nhân Việt đã thiện hành mỹ mãn làm tấm gương soi cho hậu thế như:- Trần Bình Trọng đã khí khái thét vào mặt kẽ thù: “ Ta thà làm quỷ nước Nam chứ không làm vương đất Bắc”. - Võ Tánh, Ngô Tùng Châu: “ Khẳng khái cần vương dỵ, thung dung tựu nghĩa nan”. - Phan Thanh Giản: “ Hết dạ giúp vua trời đất biết, tan mình vì nước quỷ thần hay”. - Nguyễn Thái Học: “ Chết vì tổ quốc, cái chết vinh quang, chí ta sung sướng lòng ta nhẹ nhàng”. Xưa đã thế! Nay vẫn Thế! Nước mất, nhà tan, Tướng tuẫn tiết chết theo thành. - Tướng Nguyễn Khoa Nam - Tướng Trần Văn Hai - Tướng Lê Văn Hưng - Tướng Lê Nguyên Vỹ - Tướng Phạm Văn Phú Những vị Tướng “Sinh Vi Tướng, Tử Vi Thần” Họ đã uy dũng, thao lược chỉ huy trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đoạt chiến thắng trên những cuộc thư hùng với địch quân để Bảo Quốc, An Dân khi còn tại thế. Thất thủ, tuẫn tiết chết theo thành để gìn giữ vẹn tròn danh tiếng lưu lại sử xanh cho ngàn đời sau… Anh Hùng tử khí hùng nào tử Lưu thủ đan tâm chiến hữu thanh Hơn 500 năm trước, Đông Các Đại Học Sĩ, Trình Tuyền Hầu Nguyễn Bỉnh Khiêm đã bày hương án kính cáo Thiên Địa, Quỷ Thần chấp bút khai Sấm Ký trên Đoạn Cẩm rằng: Dần Mão lai thố nguyệt kỳ Tài tận dân hao thế sự suy Quyết chiến đê đầu quân quyết chiến Quốc Quân hãm nịch, Quốc Quân dy Diễn Ý Nghĩa: Thời điểm tháng Hai năm Mão âm lịch thế sự suy tàn, người và của cải hao tán, quân Quốc-Cộng đối đầu quyết chiến, quân Quốc Gia bị âm mưu dìm xuống sông nước cho chết. Nhưng cũng chính quân Quốc Gia được dy thoát đi được ra khỏi nước. Chiến Sĩ Cộng Hòa trước năm 1975 là cơ quan ngôn luận của tập thể Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa cũng đã bị Hãm Nịch, dìm cho chết chìm với vận nước đen tối…! Nay Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hoà được vực dậy từ đau thương vì trong triệu… triệu… trái tim của đồng bào Việt Nam hãy còn luôn luôn cưu mang, thương tiếc, trân trọng quí mến…! Như thế đó Chiến Sĩ Cộng Hòa vượt lên từ đáy vực oan khiên, cô nghiệt, lẫm liệt trên nỗi bi thương hùng tráng Trẫm Triệu chỉ vào mặt cường địch mà nộ khí thét rằng:” Chiến Sĩ Cộng Hòa là tiếng nói bất khuất của Quân, Dân, Cán, Chính và thế hệ Hậu Duệ đấu tranh lật đổ bạo quyền Việt Gian Cộng Sản”. Trống trường thành lung lay bóng nguyệt Khói cam tuyền mờ mịt thức mây... Chiến Sĩ Cộng Hòa Vị Quốc Chân Ngôn Xướng Nghĩa.
Ai Người Yêu Nước Ứng Hiệp Chăng...? Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa 

Chính Nghĩa Việt Nam Cộng Hòa


.
Chính Nghĩa Việt Nam Cộng Hòa
.


 


  Những bài viết chọn lọc:

Quân lực VNCH trong con bão lửa - Phạm Phong Dinh (Audio)
Việt Nam Cộng Hòa bị bức tử - Đại tướng Vanuxem (Audio)

        

Sau 36 năm Miền Nam rơi vào tay cộng sản, ngày nay không chỉ những người sinh sống tại Miền Nam Việt Nam trước đây, không công nhận lá cờ đỏ sao vàng của Ngụy quyền Việt gian Cộng sản mà ngay cả những người trong nước cũng không tôn trọng lá cờ này mặc dù đó là lá cờ đang tung bay khắp lãnh thổ Việt Nam ngày nay. Người Việt hải ngoại tôn trọng lá cờ vàng ba sọc đỏ, không chỉ thuần túy vì đó là lá cờ của VNCH, của chính phủ Miền Nam VN mà vì đó là một biểu tượng cho một quốc gia mà đáng lẽ dân tộc Việt Nam phải có, một chính phủ tự do dân chủ, một nền kinh tế thịnh vượng, một xã hội công bằng bác ái mà lá cờ đỏ và cái chính phủ Việt gian cộng sản ngày nay tại Hà Nội sau 36 năm làm chủ đất nước đã chứng minh những điều ngược lại.
Dĩ nhiên, lá cờ vàng ba sọc đỏ là lá cờ mà những người sinh sống tại Miền Bắc không quen mắt, không chấp nhận dù họ có thù ghét chế độc cộng sản mà họ đang sinh sống đến tận xương tủy. Người ta không thể chấp nhận một biểu tượng mà người ta không biết, không hiểu, không có những kỷ niệm đẹp, không hy sinh xương máu để bảo vệ nó. Nhất là khi chỉ một sớm, một chiều, những người VN không chấp nhận Cộng Sản đã mang theo lá cờ vàng trên đường lưu vong, dù phải trải qua những nơi địa ngục trần gian là những nhà tù của cộng sản, và đã phải để lại sau lưng quê hương yêu dấu, mảnh vườn nhỏ, mái nhà ấm cúng, con sông hiền hoà, sau khi đã được chứng kiến chủ nghĩa xã hội cộng sản tiêu biểu cho văn hoá, đạo đức, luân lý Việt Nam phân hoá dần dần trước mắt. VNCH mặc dù là một xã hội chưa hoàn bị nhưng đã hình thành được mọi cơ cấu của một xã hội văn minh, công bình và dân chủ. Người Việt sống tại Miền Bắc đói khổ, đã phải hy sinh mọi thứ cho nhu cầu chiến tranh theo sự tuyên truyền của cộng sản nên có thể nói hầu hết đều không biết gì về VNCH.
Vì không được sống, không được trưởng thành, không được hoạt động chính trị, văn hoá hay sống đời quân ngũ của xã hội Miền Nam nên không có gì ngạc nhiên khi những người trí thức Cộng Sản thù ghét bọn cầm quyền cộng sản vì đã hất cẳng họ, đã đẩy họ ra khỏi nước, rồi vì  hậm hực nên suốt ngày ngồi viết những điều phản đối bọn cầm quyền cộng sản nhưng vẫn vinh danh bác Hồ và “kẻ cả” xem cộng đồng Người Việt hải ngoại là những kẻ bại trận, lá cờ vàng là vô nghĩa nên không muốn đoàn kết để lật đổ chế độ độc tài cộng sản mà họ là một thành phần cốt cán trước đây. Sống nơi xứ sở tự do này, chúng ta nên tôn trọng họ. Thái độ không muốn đứng chung trong hàng ngũ với Người Việt quốc gia cũng là một điều dễ hiểu: bối cảnh lịch sử do đảng cộng sản Việt Nam từ 60 năm qua đã chia dân tộc và đất nước Việt Nam ra thành nhiều khối: trí thức, công nhân, cộng sản, quốc gia, vv...vv... Điều khó hiểu là những người cán bộ đảng trung kiên bị thất sủng như ông Nguyễn Minh Cần, ông Bùi Tín, ông Vũ Thư Hiên thường viết bài dạy Người Việt quốc gia, những công dân của Việt Nam Cộng Hoà chống cộng trong khi họ nhìn thấy trước mắt, cái đảng tạo ra họ, cho họ một vị thế, một tên tuổi, chính cái đảng đó đang làm tan rã đất nước và con người Việt Nam. Cái đảng bất nhân đó đang chia 85 triệu Người Việt ra làm hai khối: đại đa số quần chúng bình dân, không có phương tiện về an sinh xã hội, không có giáo dục, sống đời nô lệ phục vụ cho một thiểu số cán bộ tham ô mà ngôn ngữ Việt cộng gọi là “quan tham”. Cái đảng bất nhân đó đang đưa đất nước đến cái họa diệt vong trong tay Tàu Cộng.
Sau 1975, Người Việt Quốc Gia, những công dân của VNCH vì thất thế nên chúng gọi là “ngụy”, đày ải quân dân cán chính trong rừng già để chết dần chết mòn, gia đình ly tán, con cái thất học, nên bằng mọi cách Người Việt Quốc Gia phải ra đi và bằng ý chí cương cường quật khởi cuả dân tộc VN, khối Người Việt Tự Do, những công dân cuả VNCH đã chọn thế giới làm lãnh thổ, phát triển tài lực và trí tuệ, ngăn chận được sự tuyên truyền và bành trướng của bọn Việt gian cộng sản khắp nơi. Có mà nằm mơ, người ta cũng không thể nghĩ rằng những công dân VNCH trong điều kiện sinh sống dù lưu vong, dù trong lao tù cộng sản đã giữ vững được ý chí chống cộng đến thế. Thế hệ thứ hai của cộng đồng Người Việt tị nạn cộng sản, của những công dân của VNCH vẫn giữ được nguyên vẹn đạo đức và luân lý của Việt Nam. Trong mọi gia đình, những đứa trẻ không nói rành tiếng Việt hay nói tiếng Việt với giọng ngọng nghịu của người bản xứ nhưng đều là những đưá trẻ ngoan ngoãn vì chúng biết rằng cha mẹ chúng phải lưu vong, phải hy sinh nhiều để chúng được lớn lên ở một đất nước tự do, có cơ hội để phát triển trí tuệ, những điều chúng sẽ không có được nếu sống dưới một chế độ cộng sản ngày nay, như VN, Cuba, như Bắc Hàn, hay ngay cả Trung cộng...
VNCH phải sống mãi trong lòng người Việt không cộng sản là vì thế! Vì không muốn nhận sự nhục nhã là công dân của một nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, muốn bảo vệ ngư dân cũng phải xin phép “thằng” Tàu cộng! Chúng ta hãy hành động. Tự cứu mình và cứu những người khác nữa. Vì tương lai, xin tất cả hãy tìm cách liên kết với nhau trong tình dân tộc. Xem thêm ...


Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ chắc chắn sẽ lại tung bay ngạo nghễ trên quê hương Việt Nam, quốc ca sẽ không còn “xây xác quân thù”, lăng Hồ Chí Minh sẽ bị phá bỏ, tiền Việt Nam sẽ phải có hình hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo ... tất cả 64 tỉnh thành mỗi tỉnh sẽ có một viện bảo tàng tội ác Cộng Sản, cả Dân Tộc sẽ bừng tỉnh, cả Dân tộc sẽ xót xa đau đớn chen lẫn hạnh phúc trước quá nhiều sự thật sẽ được phơi bày, tất cả sẽ phải tiếp tục đấu tranh lâu dài và gam go trước là để lập lại trật tự xã hội, sau là để hoàn thiện dần dần nền dân chủ mà những nước láng giềng như Thái Lan, Singapore, Đài Loan, Nam Hàn, Nhật Bản đã bỏ quá xa rồi. Càngnhìn lại lịch sử rồi đối chứng với hiện tại thì tôi lại càng căm phẫn tột cùng, khi gần 40 ngàn người Việt Nam đã hi sinh dưới lá cờ đỏ sao vàng trong cuộc chiến biên giới với Trung Cộng vào những năm 1979, để rồi hôm nay vì quy phục quan thầy Bắc Kinh mà những hy sinh mất mát đau thương đó trở thành đề tài cấm kỵ trên tất cả các phương tiện truyền thông trong nước, học sinh thì không được học, sử gia thì không được đào sâu phân tích, nhà văn nhà thơ thì không được tự do xuất bản, ngay đến cả những người đồng đội anh dũng năm xưa, giờ đây cũng chỉ dám “đặt vòng hoa trong tâm tưởng”. Trong khi đó lại có đến 40 nghĩa trang “Đời đời nhớ ơn các liệt sỹ TC” trên đất nước Việt Nam Xem thêm... 
       



Thật đau lòng khi có nhiều cựu chiến binh Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam lại đi cấukết với cái đám phản chiến cấp tiến, những tên trốn quân dịch và bọn chính kháchhoạt đầu xúm nhau bôi nhọ danh dự của một Quân Lực đã chẳng còn có cơ hội đểđược tự bào chữạ Nhục mạ một quân đội đã sa cơ trên chiến trường vì bị Hoa Kỳphản bội là một hành động đê tiện và bất xứng của những người Hoa Kỳ.  
Cóthể một số quý vị sẽ ngạc nhiên về lý luận của tôị Làm sao tôi có thể biện hộcho quân lực VNCH được? Phải chăng tất cả binh sĩ VNCH đều thuộc loại bất tài,xảo trá và hèn nhát? Không, không phải vậỵ Trong bài này tôi sẽ vạch ra một sốbằng chứng xác đáng để phản bác lại cái luận điệu đê hèn đó và phân tích lý dotại sao cái luận điệu đó phát sinh. Dĩ nhiên, quân đội VNCH không toàn hảọ Họcũng có một số lãnh đạo tồi tệ, một số lính tráng hèn nhát, vài ba lần hoảnghốt bỏ chạy, xằng bậy và hung bạọ Tuy nhiên, các điều này cũng đã từng xảy rađối với quân đội Hoa Kỳ tham chiến tại Đông Nam Á.


Trongmột số lãnh vực như: tổ chức, tiếp vận, tham mưu và chỉ huy, quân đội VNCH thua kém quân đội Hoa Kỳ thật. Nhưng đòi họ làm gì khác hơn được khi đất nước họ là đấtnước đang phát triển, họ mới giành độc lập từ tay chế độ thuộc địa và bất ngờlao vào một trận chiến khốc liệt, đối đầu với kẻ thù hung hãn được vũ trang hùnghậu từ cả khối Cộng Sản? Thật ra, các khuyết điểm của quân đội VNCH có cũnggiống như các khuyết điểm mà quân đội Hoa Kỳ mắc phải trong Trận Chiến Dành ĐộcLập, dù rằng Hoa Kỳ vào thời cuối thế kỷ 18 đó có nhiều lợi điểm hơn, như:
Tầm vóc của Cuộc Cách MạngDành Độc Lập hạn hẹp hơn và dễ điều khiển hơn.
Khác với sự bị trị của Việt Nam, Hoa Kỳ qua kinh nghiệm bị trịđã nuôi dưỡng tinh thần tự trị địa phương và tạo thuận lợi cho quốc gia đào tạonên những nhà lãnh đạo ưu tú.
Quân đội Hoàng Gia Anh không bền bỉ như quân đội BắcViệt.
Và quan trọng hơn hết, cácchiến hữu đồng minh Pháp Quốc đã không bỏ rơi quốc gia non trẻ Hoa Kỳ như chínhphủ Hoa Kỳ đã bỏ rơi miền Nam Việt Nam. 
Nhưngtrong bất cứ trường hợp nào chăng nữa, vấn đề tổ chức, tiếp vận, tham mưu, chỉhuy không phải là điểm chính trong việc nhục mạ quân lực VNCH. Hai câu hỏi cănbản của vấn đề là:
- Có phải những binh sĩ VNCHcó quá nhiều khiếm khuyết về tư cách, lòng can đảm, tính cương quyết và lòng áiquốc đến độ người Mỹ có cớ để nhục mạ họ và trút hết mọi lỗi lầm lên đầu họtrong việc thất bại tại Đông Nam Á?
- Có phải các binh sĩ Hoa Kỳgiỏi giang hơn các chiến hữu đồng minh của họ đến độ người Mỹ đối xử miền NamViệt Namvới một thái độ khinh rẻ như vậy
Câutrả lời cho cả hai câu hỏi trên là: "Không!"
Bằngchứng cho câu trả lời đó thật rõ ràng. Ý đồ Tổng Công Kích Tết Mậu Thân củaCộng quân là bẻ gãy ý chí phòng thủ của miền Nam Việt Nam. Nhưngchúng đã thất bại, binh sĩ VNCH đã chống trả một cách quyết liệt và hữu hiệu:không một đơn vị nào bị tan rã hay tháo chạỵ Thậm chí cảnh sát cũng đã chiến đấu,họ dùng cả súng lục để bắn lại bộ đội chính quy của Bắc Việt tron khi nhữngngười bộ đội CS này thì lại được võ trang với vũ khí hạng nặng. Theo báo cáocho thấy là vào thời điểm đó, số người tình nguyện nhập ngũ lên quá cao, đến nỗichính phủ phải ngưng tuyển mộ lính trong một thời gian. 
chứng cớ quan trọng nhất để chứng minh tinh thần chiến đấu cao độcủa binh sĩ VNCH nằm trong hai sự kiện thật đơn giản và rõ ràng sau đây, dùrằng các sự kiện này thường bị làm ngơ hoặc giả vờ không biết nhằm che đậy sựthất bại của Hoa Kỳ tại Việt Nam.
Sựkiện thứ nhất: Chiến tranh đã bắt đầu từ 7 năm trước khi quân đội tác chiến HoaKỳ bước chân vào Việt Nam, và trận chiến đó vẫn tiếp tục kéo dài suốt 5 năm saukhi Hoa Kỳ rút quân. Phải có những người đứng ra chiến đấu trong thời gian đó,và không ai khác hơn là các binh sĩ VNCH.


Sựkiện thứ hai: Có độ 1/4 triệu binh sĩ VNCH hy sinh trong cuộc chiến. Nếu đem sosánh tỷ lệ dân số hai nước, thì con số này phải tương đương với khoảng haitriệu người Mỹ chết (gấp đôi tổng số thương vong của tất cả cuộc chiến Hoa Kỳcộng lại). Bạn không thể tổn thất lớn lao như vậy nếu bạn không thực sự chiếnđấụ


Thếthì tại sao thanh danh quân đội VNCH lại bị xúc phạm nặng nề như vậỷ

Dĩ nhiên quân đội VNCH cũng có một số lần chiến đấu kém hiệu năng hoặc bị khủnghoảng, nhưng các trường hợp này cũng từng xảy ra trong quân đội Hoa Kỳ. Tôibiết một vị chỉ huy đơn vị pháo binh Hoa Kỳ đã có lần ra lệnh trực xạ vào địchquân vì lực lượng bộ binh Mỹ "bảo vệ" cho căn cứ pháo binh đã hốthoảng tháo chạy trước hỏa lực hùng hậu của địch.


Sựkiện trên không có nghĩa là toàn thể quân đội Hoa Kỳ hèn nhát, và đôi lần thấtbại của binh sĩ VNCH cũng không có nghĩa là toàn thể quân đội VNCH hèn nhát. Dùvậy, người ta lại rất dễ tin như thế khi được nghe kể lại từ chính miệng cáccựu chiến binh Hoa Kỳ hoặc từ các chính trị gia nhằm chạy tội cho chính phủ HoaKỳ về việc bỏ rơi miền Nam Việt Nam trong cơn hấp hốị 

Sự thật của vấn đề được diễn tả khéo nhất qua mẩu đối thoại cách đây gần hai thếkỷ khi một mệnh phụ Anh hỏi Quận Công Wellington rằng: "Có bao giờ quânAnh tháo chạy trên chiến trường không?" Vị Thiết Quận Công này trả lời:"Thưa bà, tất cả binh sĩ đều bỏ chạy trên chiến trường."


Chỉcần lướt qua quân sử cũng đủ để xác nhận điều nàỵ Trong suốt cuộc Nội Chiến HoaKỳ, chúng ta đã thấy rất nhiều tấm gương can đảm nhưng cũng không thiếu gì cáchành động khiếp nhược. Trên mặt trận, lúc đầu binh sĩ của hai phe Nam Bắc đều chiếnđấu rất dũng cảm, rồi phòng tuyén vỡ, rồi bỏ chạy, rồi tái phối trí và chiếnđấu trở lạị Không có quân đội nào được xem là có lòng hy sinh anh hùng hơn họ,nhưng những binh sĩ tham dự trận nội chiến này cũng không tránh khỏi những lúcthất điên bát đảo, và đó cũng là chuyện thường tình trên chiến trường. 

Vídù miền Nam Việt Nam có bị đại bại hoàn toàn, cái yểm trợ tận lực của Hoa Kỳ sẽcho phép người Mỹ nhún vai và nói rằng họ đã cố gắng hết sức. Nhưng, Hoa Kỳ đãkhông tận lực, mà trái lại người Mỹ lại còn cố gắng che đậy sự thật bằng cáchbôi nhọ miền Nam Việt Nam và nhục mạ quân lực VNCH đã sai lầm. Bây giờ đã quá trễ để Hoa Kỳ chuộc lại tội ác tầy trời khi bỏ rơi nhân dân miền NamViệt Namvào tay Cộng Sản. Nhưng nó chưa quá trễ để Hoa Kỳ thú nhận lỗi lầm trong việcnhục mạ họ. Và cũng chưa quá trễ để bắt đầu vinh danh các thành quả và lòng dũngcảm của những binh sĩ VNCH đã chiến đấu bảo vệ lý tưởng tự do  Harry F. Noyes 

               





Tính chất trụ cột của Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa
Tại sao vậy?

-  Bởi vì, khi một quân nhân Việt-Nam Cộng-Hòa gia nhập một tổ chức đảng phái nào đó thì người ấy phải đặt quyền lợi của đảng phái lên trên quyền lợi của Tổ Quốc và quyền lợi của Dân Tộc (thí dụ cụ thể nhất là những quân nhân Việt-Nam Cộng-Hòa đã bị lôi kéo vào các đảng Việt Tân, hay đảng Tự Do của Nguyễn Hữu Chánh …).
-  Khi Quân-lực Việt-Nam Cộng-Hòa còn giữ mình trong tổ chức của quân nhân, thì chất keo gắn kết họ với nhau là truyền thống quân đội, là quốc kỳ Vàng ba sọc đỏ và chỉ có một tôn chỉ duy nhất là Tổ Quốc - Danh Dự - Trách Nhiệm.

Bản thân việt-gian cộng-sản đã thấy được tính chất trụ cột của Quân Lực Việt-Nam Cộng-Hòa, nên bất chấp mọi hậu quả, từ sau 30 tháng Tư 1975, chúng đã đưa cái lực lượng trụ cột đó vào nhà tù, dài hạn, để tiêu diệt ý chí chiến đấu, lòng tự hào, kỷ cương quân giai và sức khỏe. Và khi những quân nhân Việt-Nam Cộng-Hòa đó ra được ngoại quốc, thì chúng dùng những tổ chức đảng phái ma trơi, bằng mọi cách không để cho lực lượng quân-nhân Việt-Nam Cộng-Hòa kết hợp thành một khối thống nhất, bằng cách sử dụng các đảng phái tổ chức ma chuột phân hóa cái lực lượng trụ cột đó, cầm chân không cho lực lượng đó hoạt động, cũng như cho bọn tay sai, chưa từng trong lực lượng Việt Nam Cộng-Hòa, để đưa ra những luận điệu thâm độc nhằm loại bỏ cái lực lượng trụ cột chống việt-gian cộng-sản là Quân lực Việt-Nam Cộng-Hòa, ra khỏi cuộc đấu tranh chung trong công cuộc đấu tranh chống việt-gian cộng-sản.  Nhà báo Việt Thường




Nhìn thấy Miền Bắc Cộng Sản khiến phải nổi giận trước những cái chết vô nghĩa và những lời dối trá lịch sử.


Thật khó mà kềm nổi các xúc động của tôi — nhất là không tránh được phải nổi giận — trong chuyến viếng thăm Viêt Nam của tôi hồi tuần trước. Tôi càng ngưỡng mộ người dân Việt bao nhiêu — thông minh, yêu đời, tự trọng, và chăm chỉ — thì tôi lại càng tức giận lũ Cộng Sản đã gây đau khổ quá nhiều cho người dân nước này (và dĩ nhiên cả người Mỹ chúng ta) trong nửa thế kỷ sau của thế kỷ 20.


Điều không may là lũ Cộng Sản vẫn cai trị nước này. Mà Việt Nam ngày nay đã đón nhận cách duy nhất, chủ nghĩa tư bản và thị trường tự do, để thoát khỏi cảnh nghèo đói, chứ khoan nói đến chuyện thịnh vượng. Vậy thì 2 triệu người Việt phải bỏ mạng trong Chiến Tranh Việt Nam để làm gì? Tôi muốn hỏi một trong những tên lãnh đạo Cộng Sản đang cai trị Việt Nam câu hỏi đó. 


Tôi muốn hỏi: “Này đồng chí, đồng chí đã bỏ hết tất cả những gì mà đảng Cộng Sản của đồng chí đã tranh đấu cho kỳ được: nào là cộng sản, nông nghiệp tập thể, hoạch định trung ương, và quân phiệt, ngoài những lý tưởng khác nữa. Vậy thì hãy nhìn lại xem Hồ Chí Minh yêu kính của đồng chí và đảng của đồng chí đã hy sinh hàng triệu đồng bào người Việt của đồng chí thì đúng ra là để được cái gì?”


Không có câu trả lời nào là câu trả lời hay. Chỉ có một lời nói dối và một lời nói thật, và lời nói thật thì thật là thê lương.


Lời nói dối chính là câu trả lời của Cộng Sản Việt Nam, cũng như hầu hết mọi lời nói dối của Cộng Sản, và đã được khối Thiên Tả không Cộng Sản trên Thế Giới lặp lại. Lời nói dối này đã (và vẫn tiếp tục đang) được dạy tại hầu hết các viện đại học ở phương Tây, và đã (và vẫn tiếp tục đang) được hầu hết mọi phương tiện truyền thông trên địa cầu truyền tải: Lời nói dối đó là Cộng Sản Việt Nam (tức là Bắc Việt), và Việt Cộng chỉ tranh đấu giành độc lập cho nước họ khỏi tay ngoại bang. Trước hết là tranh đấu chống Pháp, sau đó là Nhật, rồi đến Mỹ. Những người Mỹ sinh vào thời hậu chiến (sau thế chiến 2) sẽ nhớ là họ cứ được nhắc nhở mãi Hồ Chí Minh là George Washington của Việt Nam, và ông ta yêu mến Hiến Pháp Hoa Kỳ và đã dùng bản hiến pháp này làm nền tảng mô phỏng hiến pháp của ông ta, và chỉ muốn giành độc lập cho Việt Nam.
Sau đây mới là sự thật: Tất cả những tên độc tài Cộng Sản trên thế giới đều là những tên côn đồ ngông cuồng, thần thánh hóa cá nhân, tham quyền, khát máu. Hồ Chí Minh cũng thế. Hắn thủ tiêu các đối thủ, tra tấn biết bao nhiêu người Việt vô tội mà chỉ có trời mới biết chính xác được bao nhiêu người, và đe dọa hàng triệu người để họ phải cầm súng ra trận cho hắn — phải, cho hắn và cho đảng Cộng Sản Việt Nam đẫm máu, và được một tên sát nhân “vĩ đại” muôn năm khác yểm trợ: Mao Trạch Đông. Nhưng những kẻ ngu dốt đạo lý tại Hoa Kỳ lại cứ hô to “Ho, Ho, Ho Chi Minh” trong các cuộc biểu tình chống chiến tranh và gọi Hoa Kỳ là những kẻ giết người — “Hey, Hey, LBJ, hôm nay ngươi giết được bao nhiêu trẻ con?”

Tôi ghé đến “Bảo Tàng Viện Chứng Tích Chiến Tranh Việt Nam” — tòa nhà triển lãm các hình ảnh chống Mỹ cao ba tầng của đảng Cộng Sản. Chẳng có gì để tôi phải ngạc nhiên — tôi chẳng ngạc nhiên vì không có đến một chữ chỉ trích Cộng Sản Bắc Việt hoặc Việt Cộng, không có đến một chữ về việc đe dọa mạng sống của mọi người khắp nơi nếu họ không chiến đấu cho Cộng Sản, không có đến một chữ về những người liều mạng để vượt thoát bằng thuyền, thà chịu nguy hiểm bỏ mạng ngoài biển cả, vào bụng cá mập, hoặc bị hải tặc tra tấn hoặc hãm hiếp tập thể, còn hơn sống dưới chế độ Cộng Sản đã “giải phóng” Nam Việt Nam.


Điều cũng không có gì đáng ngạc nhiên là không thấy có khác biệt gì mấy giữa lịch sử Chiến Tranh Việt Nam do đảng Cộng Sản Việt Nam kể lại với lịch sử cuộc chiến đó mà hầu như sinh viên nào cũng sẽ được nghe kể lại từ hầu như bất cứ giáo sư nào tại bất cứ trường đại học nào ở Mỹ Châu, Âu Châu, Á Châu, hoặc Châu Mỹ La Tinh.

Tôi sẽ kết thúc bằng đề tài tôi đã bắt đầu— người Việt. Đã đến thăm Việt Nam thì không thể không mang ấn tượng tốt đẹp về người dân nước này. Tôi hy vọng tôi còn sống để thấy ngày người dân Việt Nam, được giải phóng khỏi những lời dối trá của Cộng Sản hiện vẫn lan tràn trong đời sống hàng ngày của họ, hiểu rằng mỗi mạng người Việt hy sinh trong cuộc chiến chống Mỹ đều bị phí phạm vô nghĩa, là thêm một mạng người nữa trong số 140 triệu sinh mạng bị đem ra hy sinh trước bệ thờ tên giả thần khát máu nhất trong lịch sử: Chủ Nghĩa Cộng Sản.
       




       


Tại sao phải tôn kính và vinh danh Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ và bài “Tiếng Gọi Công Dân”.
Để nêu cao chính nghĩa của người Việt quốc gia.
Năm 1954, gần một triệu người miền Bắc VN đã phải bỏ hết cả nhà cửa ruộng vườn chạy trốn Việt Cộng để di cư vào Nam với 2 bàn tay trắng cũng chỉ vì muốn được hưởng tự do, dân chủ và nhân quyền của chính quyền miền Nam Việt Nam tức chính quyền quốc gia VN mà biểu tượng là lá cờ Vàng với ba sọc đỏ.
Suốt 20 năm cuộc chiến VN từ 1954 tới 1975, Việt Cộng mà biểu tượng là lá cờ máu (đỏ) với ngôi sao vàng đi tới đâu là đồng bào VN chạy khỏi đó và tìm tới vùng có lá cờ Vàng Ba Sọc Đỏ tức vùng quốc gia để được bảo vệ và che chở. Hàng triệu quân dân cán chính của VNCH đã phải bỏ mình cũng vì để bảo vệ cho lá cờ Vàng ba sọc đỏ tức bảo vệ cho người dân miền Nam VN được Tự Do, Dân Chủ và có Nhân quyền
Năm 1975, Việt Cộng xóa bỏ Hiệp Định Ba Lê và cưỡng chiếm miền Nam, lại một lần nữa, hơn một triệu người Việt bỏ hết cả tài sản, nhà cửa, ruộng vườn ra đi với 2 bàn tay trắng để tìm tự do và trong số này cũng có tới vài trăm ngàn người đã chìm xâu dưới lòng đại dương cũng vì 2 chữ tự do.


Để giữ vững căn cước của người Việt tỵ nạn Cộng Sản
Sau năm 1975, chế độ Việt Nam Cộng Hoà không còn, Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ cũng như bài Tiếng Gọi Công Dân không còn là biểu tượng cho Quốc Kỳ và Quốc Ca của nước Việt Nam nữa. Nhưng trong lòng mọi người, dù đã bỏ nước ra đi hay hãy còn ở lại trong nước, Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ và bài Tiếng Gọi Công Dân vẫn là biểu tượng của Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền.
Chúng ta bỏ nước ra đi vì không muốn sống dưới chế độ tàn ác, phi nhân của Cộng Sản Việt Nam. Các quốc gia tự do trên thế giới nhận cho chúng ta nhập cư cũng vì tư cách tị nạn chính trị của chúng ta.Vì thế, là người Việt tỵ nạn Cộng Sản, chúng ta cần phải bảo vệ tư cách này bằng cách tôn kính và vinh danh Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ (quốc kỳ VNCH) và bài Tiếng Gọi Công Dân (quốc ca VNCH) mỗi khi có dịp hội họp tại nơi công cộng.

Để phân biệt rõ ràng làn ranh Quốc Cộng.
Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ và bài Tiếng Gọi Công Dân không những là biểu tượng lý tưởng của người Việt tỵ nạn Cộng Sản, không những là căn cước của người Việt tỵ nạn Cộng sàn, nó còn là biểu tượng để phân biệt rõ ràng làn ranh Quốc Gia và Cộng Sản. Một buổi họp có tính công cộng mà không treo Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, không hát bài Tiếng Gọi Công Dân thật khó lòng biết rõ đó là buổi họp của người quốc gia hay của bọn Cộng Sản.
Bởi vậy, là người Việt tỵ nạn Cộng Sản, chúng ta tuyệt đối không những không tham dự những buổi họp công cộng không có treo cờ Vàng Ba Sọc Đỏ và hát bài Tiếng Gọi Công Dân mà còn có bổn phận phải tẩy chay và thông báo cho mọi người biết để xa lánh.
Trên thế giới nhiều nước đã ra nghị quyết vinh danh Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ của người Việt tỵ nạn Cộng Sản, nhất là tại Hoa Kỳ. Trong bài “Quốc Kỳ và Quốc Ca Việt Nam” cố giáo sư Nguyễn Ngọc Huy nói: “ Hiện nay, quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ không còn được chánh thức dùng bên trong nước Việt Nam, nhưng mọi người Việt Nam ở quốc nội đều biết rằng nó là lá cờ tượng trưng cho nền độc lập và tự do của Tổ Quốc, chống lại chế độ cộng sản tàn ác, phi nhơn và nô lệ ngoại bang. Bên ngoài Việt Nam, nó cũng được người ngoại quốc xem là biểu tượng của phía người Việt Nam chống lại Cộng Sản. Không biểu tượng nào khác có thể thay thế cờ vàng ba sọc đỏ về các mặt này. Vậy, việc tỏ lòng tôn trọng quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ và dùng nó một cách rộng rãi ở nơi nào có người quốc gia Việt Nam là một công cuộc đóng góp lớn vào việc giải phóng đất nước khỏi ách Cộng Sản”.

Tóm lại, mặc dầu Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ cũng như bài Tiếng gọi Công dân, kể từ 30/4/1975, không còn là biểu tượng quốc kỳ và quốc ca của Việt Nam nữa, nhưng đối với người Việt tỵ nạn Cộng sản, nó vẫn biểu tượng cho tự do, dân chủ, nhân quyền, cho căn cước của người Việt tỵ nạn Cộng Sản. Nó là bằng chứng để phân biệt người quốc gia với người Cộng Sản.
Không phải chỉ có người Việt tỵ nạn Cộng Sản, những miền Nam, đã sống dưới chế độ Việt Nam Cộng Hoà và được hưởng những ân huệ của chế độ Việt Nam Cộng Hòa mới trân qúy, bảo vệ và mong muốn Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ sẽ có ngày lại đại diện cho nước Việt Nam, mà ngay cả những người sinh ra dưới chế độ Cộng Sản và được dậy dỗ bởi Cộng Sản cũng mong muốn Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ sẽ có ngày tung bay khắp vùng trời Việt Nam. Trong bài “Còn Cờ Đỏ Sao Vàng Thi Không Bao Giờ Có Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc” đăng trong tờ báo chui trong nước, tờ “Báo Sinh Viên Yêu Nước”, tác giả Lê Trung Thành, một sinh viên du học tại Đài Loan nói “lá cờ vàng ba sọc đỏ chắc chắn sẽ lại tung bay ngạo nghễ trên quê hương Việt Nam”.
Mọi sự lạm dụng cũng như khinh thường Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ và bài Tiếng Gọi Công Dân của những kẻ vô ý thức cần phải được kết án nghiêm khắc.
Lê Duy San


 

.
"TỔ QUỐC - DANH DƯ - TRÁCH NHIỆM"
Chính Nghĩa Việt Nam Cộng Hòa Mãi Bất Diệt Trường Tồn!
.